Cuối tháng Ba, Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và NXB Hội nhà văn vừa xuất bản cuốn sách ‘Thư cho em’ của tác giả Hoàng Nam Tiến.
Vì sao lại là “Thư cho em”?
Thư cho em bắt đầu bằng lời kể của tác giả Hoàng Nam Tiến về sự kiện tướng Hoàng Đan qua đời vào năm 2003. Mẹ của tác giả, bà An Vinh yêu cầu Hoàng Nam Tiến xếp đặt để những bức thư và nhật ký của hai ông bà sẽ đi theo ông Hoàng Đan về thế giới bên kia.
Hoàng Nam Tiến đã “to gan trái lời mẹ” giữ lại thư từ của ba mẹ trong suốt 50 năm, từ những năm 1953, thuở mới quen, cho đến quãng thời gian sau này. Qua nhiều ngày tháng, mỗi lần đọc thư, hiểu về tình cảm ba mẹ, cùng với những ký ức về ba mẹ, tác giả đã cảm thấy nỗi thôi thúc phải viết xuống cuốn sách này.
Thư cho em – Chuyến tàu du hành về tình yêu thời “ông bà anh”
“Thư cho em” đưa người đọc lên chuyến du hành thời gian quay về những năm đạn lửa của thế kỷ 20, khi cả nước đi qua cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Vì chiến tranh, thời gian bên nhau của hai người rất ít ỏi. Trong khi vị tướng chinh chiến khắp các chiến trường ác liệt, người vợ ở nhà chăm lo gia đình, nuôi dạy con cái và phấn đấu vì sự nghiệp. Bao nhớ thương, giận hờn và chờ đợi, cặp vợ chồng chỉ biết gửi gắm qua hơn 400 lá thư cho nhau, kéo dài qua bao dấu mốc lịch sử của dân tộc: chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến dịch đường 9 – Khe Sanh năm 1968, Quảng Trị năm 1972, Sài Gòn năm 1975, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, năm 1884… Những lá thư ấy cũng trở thành sợi dây buộc chặt tình yêu của hai người.
Câu chuyện của tướng Hoàng Đan và bà An Vinh vì vậy không chỉ là chuyện của một đôi trai gái, một đôi vợ chồng, mà là tình yêu của cả một thế hệ, một thời kỳ của đất nước.
Tác phẩm kể lại cuộc tình kéo dài hơn 40 năm của thiếu tướng Hoàng Đan – một trong những chiến tướng nổi bật của Quân đội Nhân dân Việt Nam và vợ ông là bà An Vinh – nữ đại biểu Quốc hội những khóa đầu, thông qua lời kể của Hoàng Nam Tiến, con trai út của hai người.
Lùi lại gần một thế kỷ, nhịp bước của tình yêu cũng chậm lại với những ngày xa cách đằng đẵng của đôi trẻ, thời buổi không có phương tiện liên lạc gì ngoài những bức thư, những lần gặp mặt trực tiếp ít ỏi… giữa những khoảng thời gian ấy là nhớ thương vời vợi. Vì vậy, người đọc được dịp chậm lại cùng tác giả, đi qua những ngày nỗi nhớ gieo mầm, nảy nở, tình cảm của hai nhân vật được bồi đắp qua những dòng thư tay, theo năm tháng đầy những mong chờ và lãng mạn dịu êm.
“Cái hôn đầu tiên anh đặt lên môi em hôm ấy… có lẽ ngày ấy cũng đánh dấu quan hệ của chúng ta qua một bước mới phải không em? Sau đó 2 hôm anh lên Mậu Lâm và chia tay em đi học. Cái buổi sáng em dậy nấu cơm cho anh ăn và hai chúng ta nói chuyện hứa hẹn với nhau. Chắc em giận anh: Anh đi làm tròn nhiệm vụ là đủ rồi, em sẽ vĩnh viễn yêu anh mặc dầu có xa cách hay anh có thương tật đi nữa em cũng một lòng yêu anh. Anh nhớ vậy, mà anh cũng tin như vậy.” (Thư ông Hoàng Đan gửi vợ An Vinh, 28/05/1955).
Trong chiến tranh, trước thử thách lớn nhất là đạn bom và cái chết, tình yêu của họ trở nên mãnh liệt, độ lượng và vị tha. Để hỏi cưới được bà An Vinh, ông Hoàng Đan năm 1953 đã liều lĩnh xin rời đơn vị trước chiến dịch Thượng Lào, cả đêm đạp xe về quê hỏi vợ rồi lại vào đơn vị. Ông đã đạp xe hơn 1300 km từ Điện Biên về Nghệ An rồi ngược lên Lạng Sơn hỏi vợ… Khi thành vợ chồng, ông cũng có niềm tin mãnh liệt sẽ “sống sót trở về với em” và mang niềm tin ấy đi qua kháng chiến chống Mỹ khốc liệt. Bà An Vinh khi là một cô gái trẻ đến lúc là một người vợ, một người mẹ vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ, cùng gia đình vượt qua những năm tháng bom đạn.
Tình yêu của họ cũng được đặt phía sau tình đất nước. Cả một đời binh nghiệp, hơn 30 năm ông Hoàng Đan hầu như không ở nhà, ông dành toàn bộ tuổi trẻ và cuộc đời của mình cho sự nghiệp chiến đấu cho hòa bình. Chưa một cái Tết nào ông ở nhà. Bà An Vinh trong suốt thời gian đó nén lại nỗi nhớ thương xa cách, kiên trì lao động, học tập và phát triển, nuôi con… Họ, giống như lớp lớp người người thời đó đã hy sinh hạnh phúc riêng cho nhiệm vụ chung lớn lao là giải phóng dân tộc.
“Cuộc chiến đấu còn tiếp diễn và còn phải một thời gian nữa và được như anh mong thì tốt, tức là năm nay kết thúc được chiến tranh, năm nay sẽ có một Điện Biên của 1972, Điện Biên đánh Mỹ.
Tháng 5/1954 kết thúc đánh Pháp, anh về cưới em. Nếu năm nay kết thúc chiến tranh, anh về sống bên em thì đúng mười tám năm em nhỉ. Mười tám năm xa nhau để làm nhiệm vụ đánh Mỹ. Xa nhau bao thương nhớ, nhưng nếu thắng lợi thì sự hy sinh đó cũng xứng đáng.
Anh vẫn khỏe, năm nay chiến đấu liên tục. Khá căng thẳng nhưng anh vẫn chịu đựng được…” (Thư ông Hoàng Đan gửi vợ An Vinh, cuối tháng 8/1972).
Không phải ngẫu nhiên tác giả Hoàng Nam Tiến lựa chọn một trích dẫn kinh điển của văn học Liên Xô làm lời đề dẫn: “Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi không gào thét, và sẽ còn lại không phôi pha tấm lòng em dịu dàng, nhẫn nại và chan chứa yêu thương.” Tác giả tự nhận mối tình của ba mẹ mình mang cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Hoàng Nam Tiến vốn được công chúng biết đến trong nhiều vị trí công việc tại tập đoàn FPT, cũng như nhiều chia sẻ ấn tượng về các câu chuyện kinh doanh, công nghệ, giáo dục… tới cộng đồng. Nhưng đây là lần đầu tiên ông xuất hiện với tư cách tác giả.
Những bài học cùng yêu, cùng sống, cùng trưởng thành của thế hệ trước
Những câu chuyện nhỏ trong “Thư cho em” mang đến cho người đọc nhiều chiêm nghiệm suy tư về tình yêu và đời sống hôn nhân giữa những cặp đôi ở bất kỳ thế hệ nào.
Ông Hoàng Đan xuất thân trong một gia đình danh giá, được học hành đầy đủ và sớm đi theo cách mạng. Không chỉ nỗ lực học tập và nghiên cứu nghệ thuật quân sự Đông – Tây, ông Hoàng Đan còn say mê văn học, nghệ thuật, triết học, tâm lý học…
Bà An Vinh xuất thân là một cô bé đi ở, có khát khao đổi thay số phận mạnh mẽ. Năm 1954, khi ông Hoàng Đan đạp xe lên tận Lạng Sơn hỏi cưới, bà đã quyết… từ chối, vì muốn tập trung phấn đấu công tác. Khi đã cưới chồng, bà có ý thức sâu sắc về việc “phải học bằng chồng” để có nhận thức, trình độ học vấn… bằng bạn đời của mình, nên ngoài nuôi con, làm việc, bà học hết cấp 2, cấp 3, rồi học lên cao hơn nữa, trở thành một mậu dịch viên xuất sắc, một đại biểu Quốc hội.
Theo tác giả, cách bà An Vinh phấn đấu “phải giỏi bằng chồng” có nhiều ý nghĩa với các bạn trẻ hiện đại. Nếu không cùng nhận thức, tầm nhìn, quan điểm sống và kinh nghiệm, sẽ không thể hiểu và đồng cảm cho nhau. Và hạnh phúc nhất, là trong hành trình học tập của bà An Vinh luôn có chồng ủng hộ.
“Anh thích học và rất ham học nên anh cũng muốn người yêu anh như vậy, cái đó cũng không hại gì. Em tùy anh nhé.
Việc học cũng khó nhưng học tập Paven chúng ta sẽ thấy rõ không khó khăn nào không vượt qua được. Paven mù hai mắt mà vẫn học hỏi được, không lẽ chúng ta lại không học được hay sao?” (Thư ông Hoàng Đan gửi vợ An Vinh khi mới cưới, 15/2/1955).
Trong đời sống hôn nhân không thiếu đi những hờn ghen và giận dỗi. Xuyên suốt cuộc tình 50 năm, tác giả qua những chi tiết rất nhỏ, kể về cách tướng Hoàng Đan hết mực chiều vợ, động viên, lo lắng; cách bà An Vinh bao dung cho những đức tính rất đàn ông của chồng mình… độc giả sẽ cảm nhận được họ không chỉ là vợ chồng, là ba mẹ, mà còn là đồng chí và những người bạn đời, vì tình yêu, vì gia đình, vì hiểu và trân trọng những điều tốt đẹp của nhau mà cả đời vun vén, nỗ lực chung sống với nhau.